Kỷ niệm 77 năm ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9:

Ký ức người lính phi công lái MiG 17 chiến đấu với máy bay Mỹ

Hải Hà

(Dân trí) - Nhân 77 năm ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, ông Trần Sơn Lâm, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Chính phủ đã ghi và biên tập lại một vài ký ức về cuộc đời của một người lính không quân.

Trung tá Nguyễn Thanh Xuân (Hai Xuân) sinh ra ở xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Năm 1954 anh tập kết ra miền Bắc cùng cha mẹ. Anh đã học ở các trường học sinh miền Nam 1, 9, 14, 19, 25, 27 tại miền Bắc. Cha anh nguyên Đại đội trưởng Đại đội cảm tử của Trung đoàn địa phương Bình Thuận, má anh là nữ chiến sĩ tình báo của Quân khu 6.

Anh Hai Xuân được đồng đội yêu mến vì sự dũng cảm và tính cách hiền lành, chân chất song nặng tình của người con đất Nam Bộ. Chiến đấu trong đơn vị không quân nhân dân Việt Nam non trẻ và anh hùng trong thời kỳ chống Mỹ và đánh Khơ Me đỏ năm 1979, anh có nhiều ký ức sống động và hào hùng của những trận không chiến của không quân Việt Nam và của chính anh.

Nhân Kỷ niệm 77 năm ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, ông Trần Sơn Lâm, nguyên phi công MiG 17, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Chính phủ đã ghi và biên tập lại một vài ký ức của anh Hai Xuân về cuộc đời của một người lính không quân gan dạ, anh dũng và thầm lặng song sáng rực phẩm chất anh hùng. Như nhiều người anh hùng không huân chương khác, anh đã góp phần làm lung linh những hào quang của Tổ quốc trong chiến tranh vệ quốc.

Ký ức người lính phi công lái MiG 17 chiến đấu với máy bay Mỹ - 1

Ánh mắt hướng về chiến thắng của Trung tá phi công Nguyễn Thanh Xuân.

Lời kể của Trung tá phi công Nguyễn Thanh Xuân

Năm 1970 tôi về nước sau khi trải qua các lớp huấn luyện không quân tại Liên Xô và được điều động về Trung đoàn 921. Tháng 4 năm 1972, khi Mỹ mở lại chiến dịch ném bom bắn phá miền Bắc từ Vĩnh Linh, Quảng Bình trở ra, tôi chính thức được biên chế vào trực ban chiến đấu và đã xuất kích nhiều lần phá đội hình máy bay Mỹ để bảo vệ các mục tiêu trên mặt đất.

Trận đánh vẫn in hằn trong trí nhớ của tôi diễn ra vào ngày 8 tháng 6 năm 1972. Vào khoảng 10 giờ sáng, Biên đội tôi do anh Nguyễn Đức Soát chỉ huy bay số 1, tôi bay số 2 được lệnh vào cấp 1 trực chiến chuẩn bị xuất kích. Lúc bấy giờ trên bầu trời sân bay Đa Phúc có nhiều tốp máy bay F4 đang bay khống chế máy bay ta để các tốp khác ném bom vào khu vực thị xã Hà Đông và phà Chèm. Sở Chỉ huy lệnh biên đội Soát- Xuân vào hầm trú ẩn trực chiến cấp 3, sau đó khoảng 5 phút nhận lệnh cất cánh.

Khi chiếm độ cao trên 2000m, tôi nhìn thấy những cụm khói đen ở Hà Đông bốc lên cao. Chúng tôi tiếp tục lấy độ cao 6000m. Sở chỉ huy thông báo quạ đen (máy bay Mỹ) bên trái 20 độ, khoảng cách 21 km. Tôi báo đã phát hiện "quạ đen" nhưng anh Soát vẫn chưa phát hiện. Sở chỉ huy tiếp tục thông báo lần thứ 3 thì anh Soát cũng phát hiện ra.

Lúc đó tôi chủ động vứt thùng dầu phụ và bật tăng lực sớm hơn một chút so với anh Soát hô. Tôi trả lời "rõ". Anh Soát lại hô: "Hai Xuân đánh thằng số 1, còn anh Soát đánh thằng số 2". Tôi trả lời số 2 nghe rõ. Tôi đuổi theo phía sau 2 chiếc RF4. Chúng phát hiện có MiG tấn công nó liền tăng lực và bổ nhào xuống phía dưới và đột ngột kéo lên với góc hơn 600. Tôi vẫn bám phía sau chúng và đến cự ly 1500-1800m tôi quyết định phóng quả tên lửa bên trái vào mục tiêu số 1.

Chiếc RF4 nổ tung. Tôi lách qua bên phải nhìn thấy chiếc còn lại ở cự ly quá gần, khoảng 1000m chếch 150 so với trục máy bay của mình. Tôi phóng quả tên lửa bên phải. Tên lửa bay sát bên phải chiếc RF4, tuy không trúng trực tiếp song theo lý thuyết, khi tên lửa bay gần mục tiêu khoảng 19-21m tên lửa tự hủy và bắn ra 1500 mảnh làm sát thương mục tiêu. Chiếc RF4 lật gấp bên phải và trượt xuống. Tôi còn nhìn rõ 4 sọc màu vàng 2 bên cánh. Sở chỉ huy lệnh cho biên đội quay về.

Bầu trời bấy giờ mây phủ 10 phần, anh Soát đáp xuống theo radar dẫn đường đang hoạt động bình thường; còn khi tôi xuyên mây để hạ cánh thì radar dẫn đường hỏng. Sở chỉ huy đành dẫn tôi về sân bay theo kiểu mò mẫm. Khi ra khỏi mây, ở độ cao 600 mét, tôi phát hiện sân bay ở dưới bụng máy bay, đồng thời trên bảng đồng hồ, đèn chỉ thị báo lượng dầu báo còn 450 lít. Tôi quyết định không vào vòng kín hạ cánh vì không đủ dầu, tôi hạ theo phương pháp hạ ngược chiều đường băng. Máy bay hạ cánh an toàn, may mà còn dầu để lăn về sân đỗ an toàn.

Trận này tôi đã bắn rơi tại chỗ một chiếc RF -4 và bắn bị thương chiếc thứ 2. Chiếc bị thương bay lết về đến Lào thì rơi. Hai tên giặc lái Mỹ nhảy dù, dân quân bên Lào bắt sống. Các lực lượng vũ trang Lào báo về cho Bộ Tổng tham mưu của quân đội Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp công bố biên đội Soát, Xuân bắn rơi hai chiếc.

Ngày 29 tháng 7 năm 1972, Biên đội 2 chiếc do anh Nguyễn Tiến Sâm bay số 1 chỉ huy, tôi bay số 2 giao chiến với 16 máy bay F4 Mỹ ở vùng trời Hà Bắc trên đường số 1B. Do mải mê truy đuổi chiếc máy bay địch, trong đội hình 16 chiếc có 4 chiếc máy bay bay phía sau cùng lao tới phóng tên lửa vào máy bay của tôi. Đúng lúc này tôi đang định phóng tên lửa vào chiếc máy bay mà tôi đang truy đuổi.

Do khoảng cách quá gần, tôi không kịp làm động tác thoát tên lửa thì máy bay đã rung lên, cánh máy bay nghiêng một góc rất lớn, mất điều khiển. Tôi nhảy dù song bấm cần nhảy dù lần thứ nhất, nắp buồng lái máy bay phóng ra, nhưng ghế vẫn không phóng theo nắp buồng lái. Tôi lại tiếp tục bấm lần thứ hai, ghế ngồi vẫn không phóng ra. Tôi bấm lần thứ ba, ghế vẫn không nhúc nhích, lúc này máy bay đang ở tư thế bay tự do với tốc độ lớn, xoắn xuống phía dưới theo quĩ đạo trôn ốc, sức gió ép lên rất mạnh, nếu như không có sức khỏe và sức chịu đựng, tôi đã về với tổ tiên.

Lần thứ tư, tôi lại dùng hết sức kéo cần phóng ghế thật mạnh. Dây bảo hiểm của cần phóng ghế đứt phựt và chiếc ghế phóng ra khỏi máy bay ở vị trí nằm ngang so với hướng máy bay đang lao xuống. Khi ghế phóng ra khỏi máy bay, tất cả mũ, băng đeo không quân nhân dân VN bay khỏi người do tốc độ gió và tốc độ máy bay rất lớn. Đang trong trạng thái rơi tự do chỉ trong khoảng vài giây, bỗng phụt một cái dù mở tự động. Tôi có cảm giác mình đang bềnh bồng trong không gian.

Lúc này tôi mới thấy cảm giác bị đau dữ dội do cột sống bị chấn động mạnh, chân tay có cảm giác tê buốt. Tôi mở mắt nhìn bầu trời trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, hình như có cái gì đó âm ấm đang chảy bên má trái của tôi. Tôi cố gắng đưa tay vẫn đang đau lên vuốt nhẹ thì thấy máu từ mắt bên trái chảy ra. Lúc này tôi nghĩ mình sống rồi.

Tôi rơi xuống một cánh đồng khô. Khi tiếp đất, cột sống của tôi bị chấn động quá mạnh nên đau vô cùng. Tôi mở khóa dù và bò ngược với hướng dù do không thể đi hay chạy được. Đây là kinh nghiệm của những đồng đội đã hy sinh để lại từ thực tế chiến đấu.

Khi thấy phi công ta nhảy dù, máy bay địch thường nã đạn vào dù. Lúc này máy bay địch vẫn quần đảo trên trời. Tôi nghe thấy một loạt đạn nổ. Dù của tôi bị hai loạt đạn 20ly của máy địch bắn trúng. Sau 2 loạt đạn 20 ly đó, tôi còn nghe hai tiếng nổ lớn. Sau này du kích kể lại, máy bay địch ném bom cầu Sông Hóa nhưng không trúng cầu.

Đến gần chiều, du kích địa phương phát hiện ra tôi và nói với nhau: Đây có thể là phi công của ta các đồng chí ơi. Tôi vội nói rất to: tôi là phi công của không quân nhân dân Việt Nam. Họ hỏi tôi: anh là người miền Nam à? Tôi nói: đúng tôi là người miền Nam!.

Các anh, chị du kích dìu tôi về trụ sở của chính quyền địa phương. Sau đó xe của đơn vị đón tôi về sân bay Kép. Tôi được đưa ra đơn vị ở Gia Lâm bằng máy bay AN2 và ngay sau đó được chở về Bệnh viện Quân y viện 108. Khi nhập quân y viện 108 hai mắt của tôi bị sưng húp và không nhìn thấy gì xung quanh. Bác sĩ chẩn đoán 2 mắt của tôi bị "viêm màng tiếp hợp mùa Xuân". Tôi chẳng hiểu gì về bệnh lý này. Bác sĩ điều trị tích cực hơn 1 tuần 2 mắt của tôi bắt đầu nhìn được mọi vật xung quanh.

Tôi điều trị tại bệnh viện Quân Y 108 khoảng 15 ngày, sau đó tôi trở về dưỡng thương do bị chùn cột sống tại bệnh viện Phòng Không - Không quân. Sau khi hồi phục, tôi lại trở về đơn vị để tiếp tục tham gia chiến đấu. Tôi gặp lại anh Du, quê ở thành phố hoa Phượng đỏ Hải Phòng, tổ trưởng tổ thợ máy.

Anh có thú nhận với tôi, bây giờ anh còn sống và trở về đơn vị anh mới nói thật: khi máy bay vào xưởng bảo dưỡng định kỳ, do thiếu một cái chốt của cần phóng ghế, xưởng đã dùng dây kẽm mềm đánh thành chốt bảo hiểm. Khi kéo máy bay ra và đưa máy bay về khu vực trực chiến thì tổ trưởng phải tháo dây kẽm ra trước khi bàn giao máy bay cho phi công trực chiến. Nhưng vì thời gian lúc đó rất khẩn trương và gấp gáp xuất kích nên anh Du quên tháo cái chốt bảo hiểm bằng dây kẽm này ra khỏi chốt bảo hiểm.

Về đơn vị, tôi lại tiếp tục xuất kích nhiều lần để lên cản phá máy địch đánh vào các mục tiêu ở Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố lớn cho đến hết tháng 12 năm 1972.

Khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc và ký hiệp định Paris tôi vẫn tiếp tục phục vụ E 927 cho đến 30 tháng 4 năm 1975 tôi chuyển vào sân bay Biên Hòa . Ngày 21 tháng 5 năm 1975 thành lập E 935, tôi thuộc biên chế của Trung đoàn E 935. Ở Trung đoàn E935, tôi là phi đội trưởng Phi đội 1 gồm các máy bay MiG 21, còn anh Lê Khương là phi đội trưởng phi đội 2 gồm các loại máy bay F 5A, F 5B, F 5E. Máy bay F 5A, F 5E là máy bay một phi công điều khiển, còn F 5B là loại máy bay 2 phi công điều khiển, vừa dùng để huấn luyện vừa làm nhiệm vụ chiến đấu. Các loại máy bay F 5A, F 5B, F5E vừa có tính năng làm máy bay tiêm kích khi đeo tên lửa, vừa làm máy bay cường kích khi đeo bom.

Số anh em bay MiG 21 có gia đình ngoài Bắc thì được về Bắc để hợp thức hóa gia đình. Tôi là người miền Nam ở lại tiếp tục tham gia chiến dịch giải phóng Campuchia.

Tôi cùng 4 đồng đội bay MiG 21 chuyển sang bay các máy bay của Mỹ như F 5A, F 5E, F 5B dưới sự hường dẫn của anh Nguyễn Văn Nghĩa lúc đó là Trung đoàn trưởng Đại tá anh hùng Không quân, Nguyễn Thành Trung làm giáo viên bay với thời gian huấn luyện chỉ trong vòng 7 ngày. Trong 7 ngày này chúng tôi học lý thuyết trong buồng lái 4 ngày và học xử lý bất trắc 2 ngày, một ngày bay thực tế có giáo viên bay kèm. Sau đó chúng tôi học các khoa mục chiến đấu trên không và ném bom bắn phá các mục tiêu dưới mặt đất.

Có một khó khăn trở ngại đối với các phi công là các thông số kỹ thuật của các loại máy bay này đều tính bằng các đơn vị đo lường của Anh như độ cao tính bằng Feet, thể tích dầu tính bằng Galon, tốc độ tính bằng Knot khác với các đơn vị đo lường quốc tế tính bằng mét, lít. Về kỹ thuật cất hạ cánh, máy bay Nga và Mỹ không khác nhau. Do các chúng tôi đều đã bay MiG 21 trong một thời gian dài và đều là phi công chiến đấu đã xuất kích trong mọi tình huống khó khăn phức tạp nên việc chuyển sang bay loại máy bay này cũng không có gì khó khăn. Cảm nhận chung của chúng tôi khi chuyển sang bay các loại máy bay này, các anh đều có nhận xét chung là bay dễ hơn, tính cơ động cao hơn.

Kỷ niệm sâu sắc khi đánh vào căn cứ Svayrieng

Sau khi được huấn luyện, được chuẩn bị đủ các điều kiện hậu cần, kỹ thuật cần thiết, chúng tôi chuẩn bị phương án đánh Khơ me đỏ. Để đánh Khơ me đỏ, chúng tôi phải tập luyện thành thục khoa mục ném bom và bắn các mục tiêu mặt đất, phải nắm vững từng loại bom và vũ khí mang theo trên máy bay.

Trên chiến trường Campuchia thường sử dụng các loại bom: Bom xuyên phá, bom phát quang; bom bi, bom vô tuyến. Tôi đã thực hiện nhiều trận đánh tiêu diệt nhiều sinh lực địch từ năm 1976 đến năm 1983. Để lại kỷ niệm sâu sắc là trận tôi là biên đội trưởng cùng phi công Trọng đánh vào căn cứ Svayrieng.

Trận đó diễn ra vào ngày 6 tháng 1 năm 1979, ngày mở màn chiến dịch phản kích và tiến công giải phóng Campuchia. Vào lúc 4 giờ sáng, tôi nhận lệnh từ Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Nghĩa làm nhiệm vụ cường kích.

Máy bay của tôi và anh Nguyễn Văn Trọng tháo tên lửa, mỗi máy bay đeo hai quả bom nặng 250 kg. Hơn 5 giờ sáng, tôi nhận lệnh xuất kích. Tôi hỏi anh Nghĩa về địa điểm, anh Nghĩa nói cứ lên trời sẽ biết. Sau khi đã chiếm được độ cao, anh Nghĩa lệnh biên đội bay theo hướng 285 độ. Vì tôi đã nhiều lần công kích các khu vực ở hướng này nên nhận biết là mình đang bay về hướng Svayrieng.

Bay một lúc anh Nghĩa hỏi đã thấy mục tiêu chưa. Tôi nghiêng cánh nhìn xuống dưới thấy một căn cứ rất lớn của Khơ me đỏ có rất nhiều loại vũ khí, trang thiết bị, ô tô mà Khơ me đỏ sử dụng tấn công Việt Nam. Khi phát hiện ra máy bay của chúng tôi, các trận địa phòng không của quân Khơ me đỏ gồm đủ các loại vũ khí từ pháo cao xạ phòng không, súng trung liên 12 ly 7 đến tiểu liên, súng trường bắn lên rất rát.

Đạn bắn chiu chít thành những vệt sáng, tôi hạ lệnh số 2 bám theo tôi chuẩn bị công kích. Tôi lật máy bay bằng động tác dứt khoát, lao máy bay xuống đến độ cao tối ưu và cắt bom. Bom rơi vào đúng giữa căn cứ, từng cột khói đen bay lên cùng những ánh chớp lửa lóe lên.

Tôi lại tiếp tục chỉ huy số 2 lao xuống cắt bom và sau đó cả hai lấy độ cao để tránh hỏa lực của địch, bảo toàn lực lượng. Trận đánh của chúng tôi chỉ diễn ra trong mấy phút đồng hồ. Sau này theo tin tức từ mặt trận gửi về, trận đánh của chúng tôi đã đạt được kết quả là tiêu diệt một khối lượng rất lớn khí tài, thiết bị và nhiều sinh lực của địch. Trận đánh này đã gây cho địch thiệt hại nặng nề đúng vào ngày ta phản kích và tiến công trên toàn bộ lãnh thổ Campuchia.

Trần Sơn Lâm

nguyên phi công MiG 17,

nguyên Vụ trưởng Văn phòng Chính phủ