Thiếu tướng, bác sĩ Phạm Gia Triệu - Anh hùng của nước Việt Nam độc lập

(Dân trí) - Anh hùng Lực lượng vũ trang, Thiếu tướng, GS.TS. Phạm Gia Triệu (1917-1990) là người có nhiều đóng góp trong ngành quân y qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Nhân dịp Kỷ niệm 66 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam, báo Dân trí xin giới thiệu bài viết của Thiếu tướng, PGS. TS. TTND Phạm Hòa Bình, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện T.Ư quân đội 108 về người cha của mình: bác sĩ Phạm Gia Triệu.

CHA TÔI

Thiếu tướng, bác sĩ Phạm Gia Triệu - Anh hùng của nước Việt Nam độc lập - 1

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân, Anh hùng LLVTND Phạm Gia Triệu.

Cha tôi là Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân, Anh hùng LLVTND Phạm Gia Triệu. Ông cũng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI - Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, được bầu vào ngày 25-4-1976. 

Theo lý lịch, cha tôi sinh ngày 15-1-1918, nhưng ông nói ông tuổi Thìn; do đi học muộn, nên phải khai bớt tuổi. Tôi nghĩ chắc ông sinh ngày 15-1 nhưng năm 1917, trước Tết Đinh Tỵ, năm âm lịch vẫn là năm Bính Thìn.

 Trong một chuyến đi vào Thanh Hóa, do nhiễm dịch tả, ông nội tôi qua đời. Bà nội tôi săn sóc ông nội và cũng mất sau đó. 

Mồ côi cha mẹ từ bé, cha tôi được họ hàng đùm bọc nuôi dưỡng. Lúc còn nhỏ, ông bắt đầu học chữ nho tại làng. Cha tôi được chú ruột là ông Phạm Tư Tề - dược sĩ Đông Dương, một nhân sĩ yêu nước nuôi cho ăn học. Học xong cấp hai ở Nam Định, ông lên Hà Nội, vừa đi làm thêm vừa học hết Tú tài.

Mang trong lòng niềm tiếc thương cha mẹ, mong muốn chữa bệnh cứu người, cha tôi đã theo học nghề thuốc ở Khoa Y, Trường đại học Đông Dương. Do hoàn cảnh gia đình nên ông đã nỗ lực rất nhiều để học giỏi, thi đỗ điểm cao. Ông kể: khi mới lên Hà Nội, ở trường con nhà giàu mùa hè mặc comple vải đũi, mùa đông mặc đồ len dạ, đi giày Tây; còn ông vẫn mặc áo the, đi guốc. Gia đình mẹ tôi - bà Nguyễn Thị Hồng Nhung, là gia đình khá giả ở Thịnh Hào, Hà Nội, đã giúp đỡ ông rất chân tình.

Năm 1943, ông được công nhận là sinh viên nội trú dự bị (externe), rồi chính thức (interne des hôpitaux) của các bệnh viện Hà Nội chủ yếu là Bệnh viện Yersin (hay Bệnh viện Phủ Doãn, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức ngày nay) và Bệnh viện De Lanessan (hay Bệnh viện Đồn Thủy, nay là Bệnh viện TWQĐ 108 và Bệnh viện Hữu nghị). 

Tháng 8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công. Lúc đó, cha tôi đang học nội trú ở Bệnh viện De Lanessan. Theo quyết định của Chính phủ, ông được công nhận tốt nghiệp bác sĩ y khoa.

Tháng 11-1945, cha tôi tình nguyện nhập ngũ vào quân y, làm Trưởng ban Quân y Đông Triều (cơ sở quân y đầu tiên của Đệ tứ Chiến khu), sau này là Quân y Trung đoàn 98. Từ đó cho đến năm 1949, ông trụ lại với Chiến khu lịch sử này.

Theo cha tôi kể lại thì trong kháng chiến chống thực dân Pháp, những năm ông ở Chiến khu Đông Triều là thời gian khó khăn gian khổ nhất. Vừa mới từ bỏ cuộc sống đầy đủ ở Hà Nội của bác sĩ nội trú, lên rừng núi chiến khu, đã gặp bao khó khăn, thiếu thốn, giặc càn quét; có khi tưởng như bị giặc Pháp bắt. "…Tháng 3-1947, địch tấn công đường 18, Bệnh xá đang ở làng Đại Bộ gần Chi Ngãi. Mới sáng địch đã vây ráp. Anh Triệu cho anh em rút vào sâu. Vợ anh mới sinh cháu chưa đầy cữ. Vai đeo ba lô, tay bế cháu bé, anh cùng anh em luồn rừng; trên trời máy bay bà già vẫn ầm ĩ nhòm ngó. Vùng mỏ với những địa danh nghe thấy đã ớn lạnh: Dá Cóc, Sà Túi, Hồ Sến, Hố Dải, nơi Bệnh xá bị đốt phá. Thế mà bệnh nhân và nhân viên, thuốc men vẫn an toàn. Đức bình tĩnh của anh Triệu và rừng sâu đã bảo vệ được lực lượng ta" (B.s Trần Trọng Vực: "Người Thầy thuốc Nhân dân kiên cường, tận tụy và tài năng"- Tạp chí YHQS, số 1- 1993).

Trong trận càn đó, có lúc mẹ tôi phải bịt miệng đứa con mới sinh - anh cả tôi, vì sợ con khóc, địch nghe thấy. Toàn bộ tài sản mang ra kháng chiến của cha mẹ tôi gói gọn trong một cái vali cũng bị mất.

"Giữa lúc ấy, lá thư chiêu hồi của sếp bốt Đông Triều bí mật đến tay anh Triệu. Phía Pháp chắc mẩm sẽ đón được ông đốc tờ trẻ, học trò yêu của quan sáu giáo sư thạc sĩ Huard. Anh Triệu, chị Nhung đã mau chóng có thái độ dứt khoát báo cáo lên chỉ huy trung đoàn. Cuộc sống yên bình, giàu sang, đầy danh vọng không khuất phục nổi anh. Tấm bằng thạc sĩ y khoa mà lá thư hứa hẹn không lay chuyển nổi anh" (Trần Nghiêm: "Lá thư chiêu hồi và tấm lòng kiên định" - đặc san Sự kiện và Nhân chứng, số 28, tháng 4-1996).

Sau này, trong cuộc sống khó khăn, đám trẻ chúng tôi thường ao ước các món quà từ nước ngoài gửi về cho gia đình. Họ hàng cha tôi có nhiều người sống ở Pháp. Khi tôi hỏi: Sao cha không sang Pháp sống cho sướng? Ông trả lời: Theo cách mạng, vì không chịu được cảnh Tây làm nhục dân mình.

Tháng 7-1949, cha tôi được điều lên làm Hiệu trưởng Trường Y tá trưởng (Bắc Giang); Viện trưởng Viện Thực hành, giảng viên Trường Quân y sĩ (Vô Tranh, Thái Nguyên).

Tháng 5-1950, cha tôi được kết nạp Đảng; cũng trong năm đó, ông được cử làm Đội trưởng đội điều trị, đi phục vụ trận đánh Đông Khê và suốt chiến dịch Biên Giới. Ông được Bác Hồ gửi thư khen và được tặng thưởng Huân chương.

Năm 1952, Phân viện 8 (tiền thân của Bệnh viện T.Ư quân đội 108) phát triển quy mô lớn hơn, số giường bệnh tăng từ 100 lên 250, ông được điều động làm Phân viện trưởng (12/1952 - 2/1954). Đầu năm 1954, ông được điều tăng cường cho Đội điều trị 1 là Đội điều trị tiền duyên của Mặt trận Điện Biên Phủ.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, cùng bác sĩ Bộ trưởng Bộ Thương binh Vũ Đình Tụng, cha tôi tham gia chỉ đạo kỹ thuật mổ cho các cơ sở cấp cứu.

Hòa bình lập lại, tháng 7-1954, cha tôi được cử sang Liên Xô học về phẫu thuật thần kinh tại Viện Phẫu thuật Thần kinh mang tên nhà ngoại khoa Xô viết nổi tiếng - Burdenko. Trong ngoại khoa, phẫu thuật thần kinh là chuyên ngành khó, đòi hỏi đào tạo thời gian dài và lúc đó Việt Nam chưa có chuyên ngành này. Ông đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ về đề tài "U nhú đám rối màng mạch não thất IV".

Về nước, cha tôi được giao làm Viện phó ngoại khoa Viện quân y 108 kiêm Chủ nhiệm bộ môn Ngoại của Trường sĩ quan Quân y (5-1960), chuyên viên đầu ngành Ngoại khoa quân y (1976). Ông giữ các chức vụ: Phó chủ tịch Hội Ngoại khoa Việt Nam và Phó chủ tịch Hội Thần kinh, Tâm thần và Phẫu thuật Thần kinh Việt Nam.

Cha tôi đã chủ trì xây dựng ngành Phẫu thuật Thần kinh trong quân đội. Ông viết nhiều tài liệu chuyên ngành để giảng dạy cho các bác sĩ. Năm 1963, Nhà xuất bản Y học xuất bản cuốn sách "Chấn thương thần kinh" của ông - cuốn sách giáo khoa đầu tiên về phẫu thuật thần kinh. 

Cùng với tập thể các bác sĩ quân y, cha tôi đã hoàn thành nhiều đề tài nghiên cứu có giá trị về dị dạng mạch máu não, vết thương sọ não do bom bi, áp xe não do vết thương hỏa khí… Đặc biệt, ông chủ biên cuốn sách "Điều lệ xử lý vết thương chiến tranh" - kim chỉ nam cho các bác sĩ trong xử trí vết thương trong cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại của dân tộc. Ông được nhận giải thưởng Nhà nước năm 2000 về khoa học công nghệ với đề tài: "Bảo đảm quân y Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến tranh cứu nước và giữ nước".

Ngày 1-1-1967, cha tôi được Quốc hội và Chính phủ phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Ông là bác sĩ quân y đầu tiên được phong tặng danh hiệu cao quý này. Trước đó, hai Anh hùng của ngành Quân y được phong tặng ngày 7-5-1956, là đồng chí Đỗ Văn Châu - Trung đội phó bộ đội tải thương và Hà Nguyên Thị - Chiến sĩ quân y (là hộ lý, y tá). 

Thiếu tướng, bác sĩ Phạm Gia Triệu - Anh hùng của nước Việt Nam độc lập - 2

TS.BS Phạm Gia triệu (mặc quân phục màu đen) đứng hàng thứ 3 sau Chủ tịch Hồ Chí Minh (Ảnh Đại hội Anh hùng Chiến sỹ thi đua Toàn quốc 12/1966 - 01/ 1967).

Năm 1968, cha tôi vào B5 phục vụ giữa lúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đang nóng bỏng. Ông chỉ đạo cấp cứu ngoại khoa chung và trực tiếp mổ các ca thương binh sọ não, cột sống. Ở chiến trường ra, cha tôi mang theo một khẩu cạc-bin (Carbine) bán tự động, là chiến lợi phẩm thu được của lính Mỹ. Vật kỷ niệm về cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân là một minh chứng nơi trận tuyến, người bác sĩ quân y còn là những chiến sĩ anh hùng.

"Năm 1972, Mỹ lại ném bom miền Bắc. Trong một buổi mổ phiên, anh đang mổ một ca áp xe não cho một đại úy bạn Lào, máy bay Mỹ bắn phá quanh viện. Một quả rốc két bắn gần nhà mổ. Các mảnh vỡ trùm lên bàn mổ. Cả kíp mổ che lấy thương binh. Một mảnh văng vào đầu anh Triệu. Anh vẫn bình tĩnh cho kíp mổ sơ tán, một mình anh ở lại với thương binh. Buổi tối mổ lại, thương binh được cứu sống". (B.s Trần Trọng Vực - "Người Thầy thuốc Nhân dân…"; sđd).

Năm 1975, cha tôi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiếp quản Tổng y viện Cộng hòa (nay là Bệnh viện quân y 175).  

Tháng 8-1978, sau khi tốt nghiệp Đại học Quân y, tôi được điều về công tác tại Viện quân y 108 và được phân công ngay về Khoa B7 - Khoa Phẫu thuật Thần kinh. Lúc đó, thương binh bị vết thương sọ não, cột sống bởi chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia, sau khi xử trí bước đầu ở Viện quân y 175, được chuyển ra Viện quân y 108 rất nhiều. Thương binh sau khi về Khoa B7 đều được xử trí cơ bản vết thương: lấy dị vật, mảnh đạn; xử trí áp xe não, vết thương cột sống… Trong hoàn cảnh đó, cha tôi đã dạy tôi tất cả.

Mỗi buổi sáng, sau khi nghe tin tức thời sự, uống ấm chè móc câu thơm nóng, ông dạy tôi khoảng 30 phút. Ông chọn tài liệu chuyên môn hoặc bằng tiếng Nga hoặc bằng tiếng Anh, dựa trên thực tế bệnh lý ở Khoa B7. Đọc, phát âm cho chuẩn; phân tích câu và dịch cho đúng; giải nghĩa cho phù hợp và áp dụng ngay trên ca mổ cụ thể để xem nên mổ, điều trị thế nào. Mỗi loại bệnh lý được học liên tục trong khoảng mươi ngày. Nhờ phương pháp học như vậy, nên tôi không chỉ hiểu chuyên môn mà khả năng ngoại ngữ, vốn từ chuyên ngành cũng tiến bộ rất nhiều. Khi có ca mổ, ông vào xem và chỉ bảo cho tôi từng li từng tí. Ông đứng trông cho tôi mổ.

Mỗi ca mổ, đặc biệt các ca bệnh khó, phức tạp, ông gợi ý cho tôi suy nghĩ, tham khảo y văn, trao đổi, tìm phương án mổ tốt nhất. Mỗi ca thất bại là một bài học lớn không quên. Không phải chỉ trong chiến đấu mà trong chuyên môn cũng rất cần sự dũng cảm để nhận ra thiếu sót. Ông đã dạy tôi cách tư duy rất thực tế, ngắn gọn, mạch lạc, nhưng cũng rất khách quan, khoa học.

Sau Tết Canh Ngọ - 1990, cha tôi cảm thấy mệt, mất ngủ và bị nấc kéo dài. Ông vào điều trị ở Khoa A1 - Khoa điều trị cán bộ cao cấp. Tuy nằm viện, nhưng ông vẫn tiếp tục công việc hằng ngày: dự giao ban, điểm bệnh, hội chẩn… Sau khi chụp thận thuốc, ông bị hôn mê, phải chuyển qua Khoa B4 - Khoa Hồi sức. Khi tỉnh lại, ông được chuyển về Khoa A1; nhưng lúc này ông yếu nhiều, phải ngồi xe lăn. Mặc dù biết bệnh tình của bản thân rất nặng, nhưng ông vẫn động viên mẹ tôi và mấy anh em tôi đừng lo lắng, rằng ông sẽ sớm trở về nhà thôi. Nhưng ngày ấy đã không bao giờ đến! Ông lại đi vào hôn mê. Tôi về nước chăm sóc cha được hơn hai tháng thì cha tôi mất vào ngày 13-6-1990.

Chính ở nơi đây - Bệnh viện De Lanessan hay Bệnh viện Đồn Thủy, 47 năm trước, cha tôi là sinh viên y khoa nội trú, nhưng của một nước thuộc địa. Thì nay, khi trút hơi thở cuối cùng, cũng trên mảnh đất ấy - Bệnh viện TƯQĐ 108, ông là một Giáo sư, bác sĩ, một vị Tướng, một Anh hùng của nước Việt Nam độc lập.